BỆNH VIỆN 24H

Sử dụng Vitamin D liều cao trong thai kỳ có thể giúp tăng cường mật độ xương của trẻ em

https://www.medscape.com/viewarticle/925730

Bổ sung Vitamin D liều cao cho người mẹ trong thai kỳ có thể cải thiện sức khỏe xương ở trẻ so với liều tiêu chuẩn được khuyến cáo – nghiên cứu mới cho thấy. Nhưng một số chuyên gia thể hiện sự thận trọng về việc giới thiệu những liều cao như vậy.

Các phát hiện, từ một phân tích thứ cấp được chỉ định trước của các nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên, mù đôi tại Copenhagen về bệnh hen suyễn ở trẻ em, đã được công bố trực tuyến vào ngày 24 tháng 2 trên JAMA Pediatric

Khi so sánh với liều sử dụng bình thường là 400 IU/ngày, việc bổ sung cho người mẹ với liều 2800 IU/ngày từ tuần thứ 24 của thai kỳ đến hết tuần 1 sau sinh giúp cải thiện quá trình khoáng hóa xương ở trẻ sơ sinh đến 6 tuổi.

Hiệu quả mạnh nhất đã được thấy ở các bà mẹ có ngưỡng thiếu hụt Vitamin D ở mức cơ bản và ở những đứa trẻ được sinh ra trong những tháng mùa đông – được ghi nhận bởi Nicklas Brustad, MD, thuộc trường đại học Copenhagen, Denmark cùng các đồng nghiệp.

“Có bằng chứng cho thấy sự cần thiết phải sử dụng liều vitamin D cao hơn trong suốt thai kỳ” – đồng tác giả, Bác sĩ Hans Bisgaard, cũng thuộc Đại học Copenhagen đã phát biểu. “Những nghiên cứu cho thấy hiệu quả ở nhiều cơ quan, điều đó chứng minh rằng đây không phải là những nghiên cứu tình cờ; [những hiệu quả bao gồm] giảm nguy cơ mắc những triệu chứng hen suyễn sớm, khiếm khuyết men răng giảm một nửa và cải thiện quá trình khoáng hóa xương.”

Trong một bài báo đi kèm, Tiến sĩ Bác sĩ Elisa Holmlund-Suila, thuộc Bệnh viện Nhi Đồng, Trung tâm Nghiên cứu Nhi khoa, đại học Helsinki và các đồng nghiệp viết: “Nghiên cứu bởi Brustad cùng những người khác đã cung cấp cho kiến thức của chúng ta về hiệu quả của việc bổ sung vitamin D ở mẹ trên những thông số về xương ở trẻ em...Tuy nhiên, những nghiên cứu trong tương lai vẫn cần thiết để xác định thời điểm và khoảng thời gian can thiệp tối ưu.”

Những người biên tập viên đã kêu gọi sự cẩn trọng dựa trên sự an toàn của liều sử dụng cao. “Những quan sát trước đó về tác dụng bất lợi tiềm năng của liều vitamin D cao ở mẹ cho kết quả sức khỏe của con đang được quan tâm. Do đó, trước khi khuyến khích liều bổ sung vitamin D gấp 7 lần cho phụ nữ có thai để cải thiện sức khỏe xương cho con, cần thêm nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, những tác dụng phụ lâu dài có thể của liều bổ sung vitamin D cao phải được nghiên cứu kĩ lưỡng.”

Khi được yêu cầu bình luận vấn đề đó, Bisgaard đã nói, “Nguyên tắc phòng ngừa là quan trọng” và “cần những nghiên cứu thêm”. Tuy nhiên, việc chờ đợi nhiều thập kỷ cho những nghiên cứu như vậy không phải là không có giá trị. Trong khi đó, các thế hệ có thể bỏ lỡ những lợi ích. Tại một số thời điểm, những người đưa ra quyết định nên đếm bằng chứng và đưa ra lựa chọn sáng suốt.

Việc nâng liều bổ sung có tác động đáng kể

Phân tích hiện nay đã là một phần của một thử nghiệm ngẫu nhiên tiến cứu lớn hơn để nghiên cứu hiệu quả việc bổ sung vitamin D liều cao đối với chứng thở khò khè lâu dài ở trẻ em trong suốt 3 năm tuổi đầu tiên. Cỡ mẫu nghiên cứu bao gồm 623 phụ nữ có thai và 584 đứa con của họ. Những người mẹ đã được chỉ định một cách ngẫu nhiên để nhận 2800 IU hoặc 400 IU hàng ngày từ tuần thứ 24 của thai kì đến hết tuần đầu sau khi sinh.

Việc đánh giá nhân trắc học theo chiều dọc đã được thực hiện cùng phương pháp Đo độ hấp thụ tia X 2 nguồn năng lượng ở trẻ 3 tuổi và 6 tuổi.

Không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm được điều trị về tuổi thai; kích thước của tuổi thai nhi; tỷ lệ hiện mắc của thai nhỏ so với tuổi thai; cân nặng khi sinh; hoặc chiều dài sinh. Trong nhóm 6 tuổi, không có sự khác biệt về chỉ số khối cơ thể (BMI), chiều cao, cân nặng, chu vi vòng đầu hoặc chu vi ngực.

Trong nhóm 3 tuổi, 244 trẻ em đã trải qua quá trình quét DXA được chấp nhận về mặt kĩ thuật. Những người trong nhóm sử dụng liều vitamin D cao đã có lượng chất khoáng trong xương cao hơn một cách đáng kể cho toàn bộ cơ thể, không bao gồm đầu (trung bình, 293.8 g với 288.8 g; P= 0.05) và tổng lượng chất khoáng trong xương của cơ thể (526,2 g so với 513,5 g; P= 0.04).

Sự khác biệt lớn nhất là giữa nhóm trẻ em sinh ra từ mẹ thiếu hụt (<30 ng/mL) so với mức đủ (>= 30 ng/mL) của mức 25(OH)D tại đường cơ sở (537.5 g so với 513.6 g; P=0.03).

Trong nhóm 6 tuổi, 383 trẻ em đã trải qua quá trình quét DXA, những đứa trẻ trong nhóm có mẹ sử dụng liều vitamin D cao đã có tổng lượng chất khoáng trong xương trong cả cơ thể (không bao gồm đầu) cao hơn đáng kể (độ khác biệt trung bình hiệu chỉnh [aMD], 7.8g; P=0.03), mật độ khoáng trong xương đầu (aMD, 0,033 g / cm2; P = 0,01), hàm lượng khoáng trong xương đầu (aMD, 6,1 g; P = 0,03), tổng mật độ khoáng xương (aMD, 0,009 g / cm2 ; P = 0,04) và tổng hàm lượng khoáng xương (aMD, 13,9 g; P = 0,01).

Và một lần nữa, hiệu quả lớn nhất là giữa những đứa trẻ được sinh bởi những người mẹ có nồng độ 25(OH)D thiếu hụt ở mức cơ bản (tổng hàm lượng khoáng hóa xương, 834.0g với 817.3 g; P=0,02) và tổng mật độ khoáng trong xương (aMD, 0,0125 g/cm2; P = .04).

Sinh ra vào mùa đông (Tháng 12 – Tháng 2) có mối liên quan với tác dụng lớn nhất ở lượng chất khoáng trong trong xương đầu. Khi được phân tầng theo nồng độ 25(OH) cơ bản, đã có hiệu quả đáng kể của việc bổ sung liều cao trên độ khoáng trong xương đầu và toàn bộ độ khoáng trong xương cho trẻ sinh trong khoảng thời gian từ ngày 8 tháng 11 đến ngày 7 tháng 5 nhưng không sinh trong khoảng thời gian từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 7 tháng 11.

Đã có tổng cộng 59 trường hợp gãy xương trong 584 đứa trẻ, 23 trường hợp sinh ra từ những người mẹ trong nhóm sử dụng liều bổ sung cao và 36 trường hợp sinh ra từ những người mẹ trong nhóm sử dụng liều bổ sung vừa, và số liệu đó không cho thấy sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê. Tỉ lệ gãy xương không có sự khác biệt giữa 2 nhóm người mẹ có nồng độ 25(OH)D ở mức cơ bản.

Holmlund-Suila và các đồng nghiệp lưu ý nhiều cảnh báo đến nghiên cứu, bao gồm số lượng ít trẻ em mà quá trình quét chất lượng cao có thể thực hiện và thiếu việc tính toán hàm lượng vitamin D trong chế độ ăn uống mỗi ngày của trẻ em, đặc biệt là sau nghiên cứu không mù tại nhóm 3 tuổi.

“Can thiệp trước khi sinh và vào đầu đời là công cụ hấp dẫn để kiểm tra lập trình và tác dụng về mặt di truyền có thể xảy ra,” họ viết. “Tại đây, sự can thiệp đã được tính thời gian từ cuối tam cá nguyệt thứ 2. Người ta có thể đoán rằng việc can thiệp tại giai đoạn sớm hơn trong quá trình phát triển thai nhi có thể dẫn đến kết quả khác nhau. Do đó, cần phải tìm ra thời gian tối ưu cho việc can thiệp vitamin D trong các nghiên cứu tương lai.”

Miriam E. Tucker

Theo Medscape

 

Tham khảo: JAMA Pediatr. Xuất bản trực tuyến vào ngày 24 tháng 2 năm 2020  Abstract, Editorial

BÌNH LUẬN

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để được tham gia bình luận!

Đỗ Hoàng Mỹ
User 25/01/2021 1:13:17 CH

👍👍👍